NHÀ NGOẠI GIAO LÊ ĐỨC THỌ VỚI HÒA ĐÀM PARIS, ĐỒNG CHÍ LÊ ĐỨC THỌ VỚI HÒA ĐÀM PARIS

(VTC News) - Những cuộc gặp riêng giữa ông Lê Đức Thọ và ông H.Kissinger rất đặc biệt, có ý nghĩa quan trọng trong đàm phán Hội nghị Paris.


PGS, TS Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) kể lại những chi tiết sống động trong hoạt động ngoại giao của ông Lê Đức Thọ trong đàm phán Paris để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Bạn đang xem: Nhà ngoại giao lê đức thọ




Cố vấn Lê Đức Thọ và cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ, tiến sĩ Henry Kissinger, hai người tạo ra những huyền thoại ngoại giao về cuộc chiến tranh do Mỹ gây ra tại Việt Nam. (Ảnh tư liệu)


Bộ trưởng Xuân Thủy - Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là người có cuộc gặp gỡ riêng đầu tiên với ông H. Kissinger - Cố vấn An ninh Quốc gia và là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ. Việc ông R. Nixon cử nhân vật có trách nhiệm cao như H. Kissinger đến đối thoại cho thấy Mỹ mong muốn đưa cuộc đàm phán vào thực chất.

Sau đó, Đảng ta quyết định cử ông Lê Đức Thọ - Ủy viên Bộ chính trị, Trưởng Ban tổ chức TW, người kiên định, thông minh, quyết đoán - gặp gỡ H. Kissinger. Lý do có cuộc gặp gỡ thứ hai giữa ông Lê Đức Thọ và H. Kissinger là để Mỹ biết được chúng ta rất coi trọng cuộc đàm phán, nên đã cử người có trách nhiệm sang đàm phán.

Các cuộc gặp gỡ chung giữa bốn bên không giải quyết được vấn đề. Đó là vì quan điểm các bên đưa ra đều là điều kiện tiên quyết. Còn trong các cuộc gặp riêng, đối thoại mang tính chất thẳng thắn, có thể nêu tất cả các vấn đề mà không công khai. Vì thế, cuộc gặp giữa ông Lê Đức Thọ và H. Kissinger mang tính thực chất.


“Mắng” và “dạy” đối phương ngay trên bàn đàm phán



PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà.

- Những bước ngoặt nào tại hội đàm công khai sau một số cuộc gặp riêng như thế, thưa ông?

Trong cuộc đàm phán Hiệp định Paris, theo tôi nghiên cứu, có hai vấn đề rất lớn nổi lên.

Thứ nhất, chúng ta yêu cầu quân chiến đấu Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam. Vấn đề còn lại của ba bên, thực chất là của người Việt Nam với nhau nên chúng ta có thể tự giải quyết. Phía Mỹ lập luận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia nhưng lại mang quân vào Việt Nam Cộng hòa, đòi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải rút quân.

Hai ông Xuân Thủy và Lê Đức Thọ cho rằng, lập luận của Mỹ không có cơ sở. Việt Nam là một quốc gia thống nhất, hiệp định Giơnevơ 1954 phân chia vĩ tuyến 17 thành giới tuyến quân sự tạm thời. Việc đặt giới tuyến quân sự tạm thời giúp hai miền từ năm 1954 đến 1956 hiệp thương với nhau, tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Rõ ràng, hiệp định đã chỉ rõ vấn đề ở vĩ tuyến 17, song phía Mỹ cố tình biến ranh giới quân sự tạm thời thành ranh giới quốc gia. Vì vậy, người Việt Nam phải đưa lực lượng vào giúp miền Nam đánh đuổi kẻ xâm lược. Chúng ta kiên trì quan điểm đó.

Sau khi lên làm Tổng thống tháng 1/1969, ông R. Nixon đề ra chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, rút dần quân Mỹ về nước. Đó là lời hứa của ông R. Nixon khi vận động bầu cử Tổng thống và đây là điều người dân Mỹ cần. Đến thời điểm này nếu chúng ta không đấu tranh, Mỹ cũng sẽ rút quân, bởi Mỹ nhận ra cho dù có 50 vạn quân hay 70 vạn quân cũng không giải quyết được vấn đề Việt Nam bằng quân sự. Mỹ đã đề nghị chúng ta đàm phán không điều kiện, và chúng ta chấp thuận. Điều đó đánh dấu quá trình Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa.

Vấn đề lớn thứ hai là, chúng ta yêu cầu Mỹ và các nước công nhận, tôn trọng độc lập, thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Nếu Mỹ thừa nhận vấn đề này tức Mỹ thừa nhận Việt Nam là một đất nước thống nhất.

Sau này, hai vấn đề lớn đó chúng ta đều đạt được. Nhưng tiến bộ thực chất đều nằm trong các cuộc gặp riêng. Điều 1 ghi, Mỹ và các nước khác công nhận, tôn trọng độc lập, thống nhất chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam như trong Hiệp định Giơnevơ năm 1954. Điều 5, Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ cam kết rút khỏi miền Nam trong vòng 60 ngày kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.


- Ông Lê Đức Thọ đã tạo nhiều ấn tượng ngoại giao trong quá trình đàm phán cho Hội nghị Paris, thưa ông?

Có một câu chuyện tôi chứng kiến trực tiếp, năm 2010 tôi sang Mỹ dự hội thảo về chiến tranh Việt Nam tại Bộ Ngoại giao Mỹ. Hội trường được chia làm ba khối ghế, khối ghế đầu tiên H. Kissinger ngồi. Khi thấy chúng tôi đi vào, H. Kissinger chống hai tay, đứng dậy, tiến đến bắt tay đoàn Việt Nam. Năm đó, ông đã 88 tuổi. Lúc đó chúng tôi đề nghị H. Kissinger chụp ảnh cùng, ông rất vui vẻ, kéo tôi vào đứng cạnh. Sau khi chụp ảnh, H. Kissinger chỉ tay cười nói, ông Lê Đức Thọ làm tôi già nhanh như này. Chúng tôi ngạc nhiên, không hiểu tại sao ông ấy lại nói “ông Lê Đức Thọ làm tôi già nhanh như này”.

Ban tổ chức hội thảo mời H. Kissinger đọc tham luận về hội nghị Paris. H. Kissinger đọc 20 phút, dành 40 phút trả lời câu hỏi. Tôi hỏi H. Kissinger 2 câu: “Thứ nhất, xin ngài cho biết vai trò của ngài trong cuộc ném bom 12 ngày đêm năm 1972?; Thứ hai, lúc ngài chụp ảnh cùng chúng tôi ngài có chỉ vào vào mặt nói là, ông Lê Đức Thọ làm tôi già nhanh như thế này, là thế nào?”.

Câu thứ nhất H. Kissinger tránh không trả lời, vì ông biết phía ta hỏi trực diện như vậy thì chính ta đã có câu trả lời. Trên thực tế, ông có vai trò rất lớn trong cuộc ném bom 12 ngày đêm năm 1972. Câu hỏi thứ hai ông trả lời rất kỹ, cho biết ông làm việc với Lê Đức Thọ mấy năm liền, có rất nhiều cuộc gặp riêng và cảm nhận Lê Đức Thọ là con người rất kiên định, thông minh. H. Kissinger nói ông Lê Đức Thọ hơn ông 11 tuổi nên hay mắng ông.

H. Kissinger nhắc đến cuộc gặp riêng giữa hai ông. Những cuộc gặp đó hai bên có phiên dịch riêng vì không thể tin tưởng đối phương, nếu chỉ dùng một phiên dịch có khi dịch sai nên phải có phiên dịch đối chứng. Mỗi cuộc gặp riêng của hai ông thường kéo dài 45 phút. Trong một cuộc gặp riêng, ông Lê Đức Thọ đứng lên nói trước. Ông nói về lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Khi chỉ còn 5 phút, ông H. Kissinger giơ tay đề nghị không nói nữa. Ông chỉ đồng hồ, nói: “Thưa ngài bây giờ chỉ còn 5 phút, kết thúc cuộc họp, cửa mở ra là có báo chí chờ sẵn, họ sẽ hỏi là hôm nay các ngài đạt được thỏa thuận gì. Theo ngài, chúng ta nên nói như thế nào?”. Ông Thọ trả lời: “Có gì đâu, ông cứ trả lời tôi giảng cho ông về lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam”.

H. Kissinger thừa nhận ông Lê Đức Thọ không được đào tạo về ngoại giao nhưng là một nhà ngoại giao lão luyện, rất kiên định và kiên trì với mục tiêu của mình. H. Kissinger rất kính trọng ông Lê Đức Thọ nên dùng cụm từ ông Lê Đức Thọ “mắng tôi”. Qua đó, chúng ta biết được ông Lê Đức Thọ rất kiên định và thông minh. Ông Lê Đức Thọ phát hiện, bác bỏ những vấn đề H. Kissinger cài cắm trong đối thoại, chỉ có vấn đề có lợi cho Việt Nam ông mới chấp nhận.

Cuộc họp bắt đầu, ông Lê Đức Thọ chỉ vào mặt H. Kissinger, nói: “Ông phản bội tôi. Tôi với ông thỏa thuận về xin ý kiến lãnh đạo hai nước rồi sang họp tiếp. Nhưng tôi về nước được 4 tiếng thì ông ném bom lên đầu tôi, ông phản bội tôi, như thế là ngu ngốc, ngu ngốc, ngu ngốc”. Khi phiên dịch viên dịch lại, H. Kissinger lập tức giơ tay đề nghị ông Lê Đức Thọ không dùng nhiều tính từ như vậy.

Câu chuyện này thể hiện tính cách cương trực, thẳng thắn của ông Lê Đức Thọ. Bởi vì trong khi ông Lê Đức Thọ về báo cáo ông Lê Duẩn, tất cả đều được thông qua và được hối thúc quay trở lại sớm đàm phán với Mỹ, ký kết hiệp định. Nhưng lúc ông Lê Đức Thọ định quay trở lại Paris thì Hà Nội đã bị Mỹ ném bom.



- Sau hội nghị ở Paris, hai ông Lê Đức Thọ và H. Kissinger được đề cử giải Nobel Hòa bình. Tuy nhiên, ông Lê Đức Thọ từ chối. Điều này được ghi thế nào trong các tài liệu nghiên cứu về lịch sử Đảng?

Báo chí trong và ngoài nước đưa tin, Ủy ban Giải thưởng Nobel quyết định tặng giải thưởng Nobel Hòa bình cho 2 người có công lớn nhất trong Hiệp định Paris là Lê Đức Thọ và H. Kissinger. Tuy nhiên, ông Lê Đức Thọ đã từ chối vì cho rằng, đây không phải là công lao của cá nhân ông mà là của toàn thể dân tộc Việt Nam. Ông cùng mọi người chiến đấu vì hòa bình, không chiến đấu vì giải thưởng.

Trong sách lịch sử của chúng ta không ghi chép chính thức vấn đề Lê Đức Thọ từ chối nhận giải Nobel Hòa bình mặc dù đó là sự thực. Sau này tôi được biết, H. Kissinger cũng không được nhận giải thưởng này, bởi phía Ủy ban Giải thưởng Hòa bình quyết định tặng chung cho hai bên, giải thưởng chia đôi. Một bên không nhận, bên còn lại H. Kissinger nhận thì không đúng, nên ông quyết định không nhận giải.

Sau này, H. Kissinger sang thăm Hà Nội. Chính ông Lê Đức Thọ đã đón H. Kissinger và đưa ông đến Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Họ dừng lại trước bức trướng có in bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tiệt nhiên phận định tại thiên thư/Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. Tại đây, ông Lê Đức Thọ dịch bài thơ này cho H. Kissinger hiểu. Khi nghe xong, ông H. Kissinger nói rằng, đây chính là điều 1 trong Hiệp định Paris (Hoa Kỳ và các nước tôn trọng độc lập chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam như Hiệp định Giơnevơ 1954 đã công nhận). Đến đây, chúng ta nhận ra được thái độ H. Kissinger đã nhũn nhặn khi ông bình luận một cách rất tích cực, đây là điều 1 của Hiệp định Paris.

Xem thêm: Xem Phim Người Đàn Ông Đến Từ Xích Đạo (Man From The Equator)



Những bài học quý báu

- Theo ông, đường lối đấu tranh ngoại giao của Đảng, của Bác Hồ thể hiện thế nào qua đàm phán Paris?

Đường lối đấu tranh ngoại giao được Đảng ta tính toán phù hợp bối cảnh, nhấn mạnh phải giành thắng lợi ở trên chiến trường. Ở trên chiến trường không giành được lợi thế thì trên bàn hội nghị chúng ta cũng không thể giành được. Nghĩa là đấu tranh vũ trang, quân sự đóng vai trò quyết định thắng lợi trên bàn đàm phán.

Cuộc đàm phán Paris rất đặc biệt so với Giơnevơ, mặc dù cả hai đều kết hợp quân sự với ngoại giao. Đoàn đàm phán của ông Phạm Văn Đồng đến Giơnevơ với vị thế của người chiến thắng, đánh thắng trận Điện Biên Phủ và đàm phán với Pháp ký hiệp định Giơnevơ. Nhưng trong kháng chiến chống Mỹ năm 1968, ngay sau cuộc Tổng tiến công nổi dậy Mậu Thân, Tổng thống L. Johnson đưa ra đề nghị đàm phán không điều kiện bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, bất cứ cấp nào. Lúc này, chúng ta hiểu lời đề nghị của ông L. Johnson mang tính thực chất và đồng ý.

Năm 1968 là năm bầu cử Tổng thống Mỹ, chúng ta tiến hành Tổng tiến công Mậu Thân. Sau Mậu Thân ta tổn thất nhiều lực lượng, mất đất, mất dân nên chỉ duy trì đàm phán ở mức nhất định. Năm 1972, tiếp tục bầu cử Tổng thống Mỹ, ông R. Nixon muốn ứng cử, tái cử nhiệm kỳ 2, chúng ta tiến hành tổng tiến công chiến lược. Tức là Đảng ta luôn luôn cho rằng phải có hoạt động quân sự với những đòn chí tử đối với Mỹ để giành lợi thế đàm phán.

Đến năm 1972, Mỹ phải ký Hiệp định Paris, lần này do chúng ta chủ động, nhân nhượng. Chúng ta xác định ông R. Nixon muốn đắc cử nhiệm kỳ 2 thì phải giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam bằng việc ký hiệp định. Chúng ta chủ động nhân nhượng. Những nhân nhượng này do phía Mỹ đề nghị cách đây 4 năm nhưng chúng ta không chấp nhận.

Lúc nhận thấy chúng ta nhân nhượng, thống nhất ký hiệp định, Tổng thống R. Nixon tráo trở muốn chúng ta nhân nhượng thêm nhiều vấn đề khác. Chúng ta không nhân nhượng, Mỹ đặt lại vấn đề đòi ta rút quân. Trong khi đó từ giữa năm 1971, Mỹ đã không đòi Việt Nam rút quân. Tổng thống R. Nixon quyết định tập kích đường không B-52 vào Hà Nội cuối năm 1972. Kết quả Mỹ thua cuộc, một lần nữa đề nghị Việt Nam ngồi vào đàm phán ký hiệp định. Tuy nhiên, chúng ta kiên định với tinh thần không đổi so với đề nghị trong bản dự thảo tháng 10/1972.

Chủ trương của Đảng luôn luôn kết hợp quân sự ngoại giao, nhưng quân sự đóng vai trò quyết định. Nếu chúng ta không thắng lợi trong chiến dịch Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không năm 1972, không bắn rơi nhiều B-52 cuộc đàm phán sẽ rất gay go, có khi phải nhân nhượng tiếp. Nhưng chúng ta lại chiến thắng nên cuộc đàm phán Paris dẫn đến cái kết có hậu như thế.

- Đường lối ngoại giao hiện nay của Nhà nước ta đã kế thừa và phát huy những bài học trong đàm phán Paris ra sao, thưa ông?

Đường lối ngoại giao của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ rất linh hoạt, cân bằng được mối quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc trong bối cảnh hai nước đang mâu thuẫn gay gắt, để hai nước tiếp tục viện trợ cho Việt Nam. Đây chính là cái hay của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ta.

Áp dụng kinh nghiệm trong kháng chiến chống Mỹ vào đường lối đối ngoại hiện nay, ngoài việc làm bạn với các nước, cân bằng các mối quan hệ với các nước lớn là điều quan trọng. Đảng ta đề ra chính sách quốc phòng rất độc lập với 4 không: Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên đất nước Việt Nam; không tham gia vào liên minh quân sự; không liên kết để chống đất nước thứ ba; cam kết không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Tức là sử dụng chính sách đối ngoại hòa bình, độc lập, không lệ thuộc bất kỳ đất nước nào.

Tính từ năm 1986, Đảng ta đề ra chủ trương làm bạn với tất cả các nước, hội nhập quốc tế. Việc Việt Nam được bầu vào Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 là dấu ấn thành công rất lớn trong ngoại giao. Hiện nay, chúng ta cân bằng được quan hệ với các nước.

Ngoài việc cân bằng chiến lược với các nước lớn, vận động nhân dân thế giới ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa là một mục tiêu khác. Chúng ta có độc lập, chủ quyền trong tranh chấp quốc tế. Ví dụ như căng thẳng trên biển Đông, đường lối đối ngoại là đối thoại, không đối đầu, rất cương quyết về mặt chủ quyền, giống như chủ trương trước đây của Bác Hồ “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Bất biến là gì? Là độc lập, chủ quyền không mang ra trao đổi. Còn ứng vạn biến là những cái khác mang tính sách lược có thể thỏa thuận, trao đổi. Tôi thấy kinh nghiệm hoạt động ngoại giao trước đây, nhất là từ Hiệp định Paris, cách đây 50 năm được Đảng ta đã áp dụng vào tình hình hiện nay rất thành công.

Một chủ trương đối ngoại khác, khi chúng ta có thực lực thì tiếng nói mới có trọng lượng. Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, nếu chúng ta yếu thì chúng ta chỉ là khí cụ trong tay người khác, nếu không tự xây dựng thực lực thì không thể có tiếng nói. Đấy là chủ trương rất hay, chúng ta phải xây dựng thực lực.

Tháng 5-1968, khi đang đảm nhiệm vị trí Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho gọi ông Lê Đức Thọ về gấp Hà Nội để chuẩn bị sang Paris làm cố vấn cao cấp Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris. Trong lá thư viết tay gửi Bộ Chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi rõ: “…Anh Sáu (Lê Đức Thọ) nên về ngay (trước tháng 5-1968) để tham gia phái đoàn ta đi gặp đại biểu Mỹ”.

Cuộc đấu trí với “bộ óc thông thái nước Mỹ”

Trưởng đoàn đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi ấy là ông Xuân Thủy, song Cố vấn của đoàn Lê Đức Thọ mới là người lãnh đạo và truyền đạt ý kiến của Trung ương, của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như đưa ra các quyết định trong đàm phán.

Trước khi đoàn đàm phán lên đường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đừng để nước Mỹ bẽ bàng, đừng xúc phạm nhân dân Mỹ vì Việt Nam chỉ chiến đấu với giới cầm quyền hiếu chiến của Mỹ, về nguyên tắc quyết không nhượng bộ song về phương pháp thì “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

*

Cố vấn đoàn đàm phán phía Mỹ là TS. H.Kissinger, một người được xem là bộ óc thông thái của nước Mỹ song đã phải thừa nhận “đối thủ” Lê Đức Thọ: “Tôi có thể làm tốt hơn nếu như đối diện trên bàn đàm phán không phải là ông Lê Đức Thọ!”.

Cuộc đàm phán ở Paris thật sự là cuộc đấu trí giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và phía Mỹ. Rất nhiều lần người Mỹ đã lật lọng và không dễ dàng chấp nhận thua cuộc cũng như không muốn “bỏ rơi” chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Vì vậy, phía Mỹ nhiều lần trì hoãn hoặc đưa ra những đòi hỏi phi lý, không thể chấp nhận.

Để gây áp lực và buộc Việt Nam Dân chủ cộng hòa phải chấp nhận ký kết hiệp định với những điều khoản có lợi cho phía Mỹ và chế độ Sài Gòn, Tổng thống Mỹ Nixon đã ra lệnh bắn phá miền Bắc Việt Nam cuối năm 1972. Thất bại thảm hại trên bầu trời Hà Nội đã buộc phía Mỹ phải xuống thang và đề nghị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngồi vào bàn đàm phán.


“Nhà ngoại giao khổng lồ”

Với việc ký kết Hiệp định Paris năm 1973, ông Lê Đức Thọ được trao tặng giải Nobel năm 1973 cùng với Henry Kissinger, nhưng ông từ chối nhận giải với lý do hòa bình vẫn chưa thực sự lập lại trên đất nước Việt Nam.

*

Đồng chí Lê Đức Thọ, Cố vấn đặc biệt của Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ, Tiến sỹ Henry Kissinger, sau buổi họp riêng cuối cùng trước khi ký Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (1-1973). Ảnh: TTXVN

Trả lời phỏng vấn phóng viên Hãng tin UPI (Mỹ) năm 1985, cố vấn Lê Đức Thọ đã giải thích rõ nguyên nhân ông không nhận giải Nobel hòa bình cùng Henry Kissinger: “… Mỹ tiến hành xâm lược đất nước tôi 20 năm. Người chống Mỹ và làm cho Mỹ thất bại, giành độc lập đưa hòa bình cho đất nước và cho cả khu vực này là chúng tôi. Người làm hòa bình là chúng tôi chứ không phải Mỹ (…). Coi chúng tôi cũng như Mỹ. Điều đó là sai lầm và tôi không thể chấp nhận như vậy. Vì vậy, tôi đã không nhận Giải thưởng Nobel!”.

Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên đánh giá về ông Lê Đức Thọ: “Ông là nhà ngoại giao khổng lồ. Ông khổng lồ ở chỗ đối phương đối thoại với Lê Đức Thọ là Kissinger, một học giả rất lớn của Mỹ thời đó. Lúc đó, Kissinger rất ngạo mạn, những tưởng có thể đè bẹp Lê Đức Thọ nhưng không thể được. Ví như làm thế nào để thống nhất được với Mỹ về vấn đề Mỹ phải rút quân. Mỹ muốn nếu Mỹ rút quân thì miền Bắc cũng phải rút quân khỏi miền Nam, đánh đồng như thế không thể được. Cuối cùng, ông Lê Đức Thọ đưa ra một công thức đó là vấn đề quân đội Việt Nam ở lãnh thổ Việt Nam do các bên Việt Nam giải quyết với nhau. Còn việc Mỹ rút quân là chuyện Mỹ phải rút. Tôi nghĩ trí tuệ của ông ở chỗ tìm một giải pháp đúng với lợi ích của mình”…


Có nhiều gắn bó với cách mạng miền Nam

Ông sớm tham gia cách mạng trong các phong trào yêu nước truy điệu nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh. Ông là thành viên của Đông Dương Cộng sản Đảng năm 1929. Tháng 11-1930, Lê Đức Thọ bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù khổ sai, đày ra nhà tù Côn Đảo. Tại đây, ông được cử làm Bí thư Chi bộ và Thường vụ Chi ủy nhà tù.

Ngoài việc bị giam giữ ở “địa ngục trần gian” Côn Đảo, Lê Đức Thọ còn trải qua rất nhiều năm bị giam cầm ở các nhà lao Hà Nội, Sơn La, Hòa Bình. Tháng 9-1944, sau khi thoát khỏi nhà tù của thực dân Pháp, ông được Trung ương Đảng giao phụ trách công tác khu an toàn của Trung ương, công tác tổ chức và huấn luyện cán bộ, sau đó được chỉ định là ủy viên Trung ương Đảng và trực tiếp phụ trách Xứ ủy Bắc kỳ rồi được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng tháng 8-1945 và được giao phụ trách công tác tổ chức của Đảng.

Năm 1948, ông Lê Đức Thọ thay mặt Trung ương Đảng tham gia Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ vào miền Nam công tác. Năm 1949, ông làm Phó bí thư Xứ ủy Nam bộ. Kể từ đó, ông gắn bó mật thiết và trở thành nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng ở miền Nam.

Trên cương vị Phó bí thư Xứ ủy Nam bộ (năm 1949) và sau đó làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương Cục miền Nam (từ 1949-1954), ông Lê Đức Thọ gắn chặt với ngành Tổ chức của Đảng. Ngay từ rất sớm, ông đã quan tâm đến vai trò của công tác cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, trong những năm phụ trách công tác này ở miền Nam, Xứ ủy Nam bộ đã rất quan tâm chăm lo xây dựng kiện toàn bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo của Xứ ủy, củng cố và thành lập mới các ban chuyên môn, cử cán bộ đi cơ sở để nắm tình hình. Ngay trong những ngày kháng chiến ác liệt ấy, Xứ ủy đã mở rất nhiều lớp bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là đã xây dựng Trường Đảng Trường Chinh để đào tạo cán bộ.

Sau này, trong kháng chiến chống Mỹ, ông lại được cử vào miền Nam sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 để đảm nhiệm nhiệm vụ Phó bí thư Trung ương Cục miền Nam. Trong Tổng tiến công, nổi dậy mùa Xuân năm 1975, ông tiếp tục được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ làm đại diện của Bộ Chính trị chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

x